Thứ Ba, 4 tháng 10, 2011

Mơ lông- Vị thuốc chữa bệnh đường ruột

Từ lâu, dân gian thường dùng lá mơ lông như một loại rau sống ăn kèm với một số món như: thịt chó, thịt lợn luộc, nem thính, cá rán… Tuy nhiên, ngoài công dụng như một loại gia vị, lá mơ lông còn có tác dụng chữa bệnh.



Mơ lông.

Mơ lông còn gọi là mơ tam thể, ngưu bì đồng, đại chúng diệp, ngũ hương đằng, thanh phong đằng, mao hồ lô... là một loại dây leo có nhiều lông, hay gặp ở bờ rào hoặc quấn quanh những thân cây khác, thường mọc nhiều vào mùa hè hay thu. Lá mơ mỏng, mọc đối, hình trứng hoặc hình mũi mác, đáy lá tròn hoặc hình tim, mặt trên lá màu xanh, mặt dưới màu tím đỏ, cả hai mặt lá đều phủ một lớp lông nhung trắng, nhỏ, mịn. Khi vò lá này thấy một mùi đặc biệt hôi hôi tanh tanh do trong lá chứa một loại tinh dầu có lưu huỳnh và ancaloit (paedrin).

Theo y học cổ truyền, lá mơ lông vị chua, tính bình, có công năng trừ phong hoạt huyết, chỉ thống giải độc, tiêu thực đạo trệ, trừ thấp tiêu thũng thường được dùng để chữa các chứng phong thấp (đau khớp), phúc thống (đau bụng), lỵ tật (kiết lỵ), phù thũng, thực tích (đầy bụng, chậm tiêu), cam tích (trẻ em suy dinh dưỡng), can tỳ thũng đại (gan, lách to), trúng độc, thoát giang (sa trực tràng), bối ung (mụn nhọt mọc ở lưng), bạch đới (khí hư)... nhưng thông dụng nhất vẫn là chữa các bệnh về đường tiêu hóa. Dưới đây là một số bài thuốc từ mơ lông mà dân gian vẫn thường dùng:

Chữa kiết lỵ mới phát: Lấy một nắm lá mơ tươi, thái nhỏ trộn với trứng gà cả lòng đỏ và lòng trắng, lấy lá chuối bọc lại rồi nướng chín đều để ăn hoặc cho lên chảo rán vàng không cho dầu, mỡ. Ngày ăn 2-3 lần và ăn liên tục vài ngày là khỏi. Nếu bị chứng lỵ mới phát do đại tràng tích nhiệt thì lấy một nắm lá mơ và một nắm lá phèn đen, cả hai rửa sạch, nhúng qua nước sôi, vẩy khô, giã nát, vắt lấy nước cốt uống. Uống 2-3 lần.

Hoặc các bài thuốc nam phối hợp như:


- Lá mơ lông 100g, rau sam 400g, hạt cau 100g, củ phượng vĩ 100g, cỏ sữa nhỏ lá 400g. Tất cả sao tán bột dùng 20g/ngày dùng 5-7 ngày.

- Lá mơ lông 100g, phèn đen 20g, củ phượng vĩ 20g, sao tán bột, uống ngày 20g.

- Lá mơ lông 100g, cỏ nhọ nồi tươi 100g, lá phượng vĩ 100g sắc uống trong 5-7 ngày.

- Lá mơ lông 100g, cỏ sữa lá to 100g, rau sam 100g, ngân hoa 20g, búp ổi 20g, búp sim 100g, sắc nước sánh hơi đậm, uống trong ngày dùng 5-7 ngày.

Chữa tiêu chảy do nóng: Nếu mắc chứng tiêu chảy do nhiệt với triệu chứng khát nhiều, phân khẳm, nước tiểu vàng, bụng đau quặn kèm theo đầy hơi, hậu môn nóng rát, có thể dùng lá mơ 16g, nụ sim 8g sắc cùng với 500ml nước còn 200ml, chia làm hai lần uống trong ngày.

Chữa sôi bụng, ăn khó tiêu: Lấy một nắm lá mơ tươi ăn kèm trong bữa cơm hoặc giã nát vắt lấy nước uống, ăn như vậy trong khoảng 2-3 ngày là thấy kết quả.

Lá mơ tam thể còn gọi là mơ lông (vì cả hai mặt của lá đều có nhiều lông, rất mịn), mặt trên của lá có màu xanh, mặt dưới có màu tim tím. Tên khoa học là Paederia tomentosa lour, là loại cây leo, mọc hoang ở mọi nơi (thường ở các hàng rào). Có thể trồng bằng dây (lấy những đoạn dây ở gần gốc, dài khoảng 30 cm, vùi ở hàng rào). Chỉ trồng một lần, có thể dùng nhiều năm. Ngoài việc dùng làm gia vị đối với các món ăn như thịt cầy, bê thui..., lá mơ còn là một vị thuốc để trị một số bệnh hiệu quả.

Chứng kiết lỵ, viêm ruột mãn tính: Lá mơ tam thể: 50 -100g, rửa hay lau sạch lông, giã nhuyễn, trộn với 1 - 2 quả trứng gà (cả lòng đỏ và lòng trắng), cho thêm 5 - 10g muối, trộn đều, xào hoặc cuộn vào lá chuối nướng cho đến khi có mùi thơm. Mỗi ngày ăn 2 - 3 lần liên tục trong 7 - 10 ngày, rất công hiệu.

Chứng phong tê thấp (đau nhức xương khớp, luôn có cảm giác nặng nề, bứt rứt), dùng theo hai cách:

- Uống: lấy cả lá và dây, cắt nhỏ, mỗi đoạn chừng 1 - 2 cm, sao vàng. Mỗi lần dùng 50g, sắc với 200 ml, còn 100 ml, chia đều, uống 3 lần trong ngày, liên tục 10 - 15 ngày.

- Dùng để xoa bóp: cũng dùng cả lá và thân: thái nhỏ, phơi khô, sao vàng, ngâm trong rượu (trên 40 độ) lắc đều mỗi ngày. Xoa tại các vùng đau nhức.

Ngoài ra ở một số nước, người ta còn dùng nước sắc lá mơ để trị chứng bí tiểu tiện và sỏi thận, liều dùng cũng như trên. Tuy nhiên điều này chưa được thử nghiệm ở Việt Nam.

Lá mơ lông còn được gọi là rau mơ, mơ tam thể, cây lá mơ. Theo Đông y, rau mơ có tác dụng thanh nhiệt, sát khuẩn và chữa các bệnh về đường tiêu hóa rất hiệu nghiệm.

Chữa kiết lỵ giai đoạn khởi phát: Khi bị lỵ, người bệnh đi đại tiện nhiều lần, phân lẫn máu và chất nhầy. Nếu có kèm sốt thì lấy một nắm lá mơ thái nhỏ, đập một quả trứng gà, trộn đều. Bọc hỗn hợp này bằng lá chuối, đem nướng chín. Ăn ngày ba lần, liên tục vài ngày sẽ khỏi.

Lá mơ lông giúp "an bụng", tốt cho tiêu hóa.

Nếu bị lỵ do đại tràng tích nhiệt thì lấy một nắm lá mơ và một nắm lá phèn đen rửa sạch, dội qua nước sôi để ráo, giã nát, vắt lấy nước cốt uống 2-3 lần.

Chữa chứng sôi bụng, ăn khó tiêu: Lấy một nắm lá mơ tươi, rửa sạch, ăn kèm với cơm như rau hoặc giã nát lấy nước uống. Ăn, uống liền trong 2 - 3 ngày sẽ có kết quả.

Chữa chứng tiêu chảy do nóng: Khi bị tiêu chảy do nhiệt với các biểu hiện phân khẳm, nước tiểu vàng, bụng quặn đau, đầy hơi, khát nước nhiều, hậu môn nóng rát, dùng 16 gr lá mơ, 8 gr nụ sim sắc với 500 ml nước lấy 200 ml. Uống trong ngày mỗi lần 100 ml.

Chữa đau dạ dày: Lấy 20 - 30 gr lá mơ rửa sạch, giã nát lấy nước uống mỗi ngày một lần. Kiên trì dùng sẽ có hiệu quả.

Chữa chứng bí tiểu tiện: Nếu mắc bệnh sỏi thận dẫn đến bí tiểu tiện lấy lá mơ sắc uống ngày 2 - 3 lần.

Để chữa kiết lỵ, dùng lá mơ lông 30 - 50g rửa sạch thái nhỏ, trộn với 1 quả trứng gà rồi bọc lá chuối đem nướng hoặc đặt vào chảo mà rán (không cho mỡ), ăn 2 lần trong ngày, 7 ngày liên tiếp. Để chữa chứng phong thấp, dùng rễ hoặc dây mơ lông 30 - 50g sắc uống với một chút rượu.

Để chữa chứng bối ung nên dùng 50g dây mơ lông tươi sắc uống, bên ngoài lấy lá giã nát đắp. Để chữa chứng cam tích trẻ em có thể dùng rễ mơ lông 15 - 20g hầm với dạ dày lợn 1 cái mà ăn. Để giải độc dùng rễ và dây mơ lông 100g, đậu xanh 30g sắc uống làm 3 lần, mỗi lần cách nhau 2 -3 giờ.

Trên lâm sàng, các nhà y học Trung Quốc đã nghiên cứu dùng mơ lông điều trị các chứng đau do viêm loét dạ dày, co thắt đường mật, chấn thương và đau sau phẫu thuật, chữa viêm da thần kinh, viêm tuỷ và dị ứng dạng nổi cục đạt kết quả khá tốt.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét